Câu 4: Vận dụng các phương châm hội thoại để giải thích vì sao người nói phải sử dụng cách diễn đạt sau:
a. Đôi khi người ta sử dụng những cách diễn đạt như: Như tôi được biết, tôi tin rằng, nếu tôi không lầm thì, tôi nghe nói, theo tôi nghĩ, hình như là,...
Người nói đã thông báo đến người nghe về tính chính xác của thông tin, tránh vi phạm phương châm hội thoại về chất, không muốn tạo ra sự áp đặt cho người nghe do thông tin chưa được kiểm chứng.
b. Đôi khi người ta sử dụng những câu mở đầu như: Như tôi đã trình bày, như mọi người đều biết,...
Để tránh phải lặp đi lặp lại gây thừa thông tin hoặc người nghe không hiểu nếu bỏ qua không nói đến (thiếu thông tin), người ta thường sử dụng những câu diễn đạt trên. Đây là cách tuân thủ phương châm về lượng.
Câu 5: Giải thích nghĩa của các thành ngữ sau và cho biết chúng liên quan đến phương châm hội thoại nào?
- Ăn đơm nói đặt: đặt điều, nói những điều không có thật trong thực tế, vu khống bịa chuyện cho người khác
- Ăn ốc nói mò: nói không căn cứ.
- Ăn không nói có: vu khống, cố ý nói sai sự thật, bịa đặt cho người khác.
- Cãi chày cãi cối: cố tranh cãi nhưng không có lí lẽ thuyết phục, không đưa được thông tin chính xác.
- Khua môi múa mép: ba hoa, khoác lác, nói những điều không có thật trong thực tế.
- Nói dơi nói chuột: nói linh tinh, lăng nhăng, không nghiêm túc trong lời nói
- Hứa hươu hứa vượn: lời hứa hão huyền, hứa cho xong chuyện và người nói không thực hiện lời hứa.
Các thành ngữ trên đều liên quan đến việc không tuân thủ phương châm hội thoại về chất trong giao tiếp do lời nói đưa ra không có thông tin chính xác.
Xem bài tiếp theo: SỬ DỤNG MỘT SỐ BIỆN PHÁP NGHỆ THUẬT TRONG VĂN BẢN THUYẾT MINH